Nghị định số 32/2024/NĐ-CP về quản lý, phát triển CCN
Với sự chỉ đạo của Đảng, sự vào cuộc của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, thời gian qua công tác quản lý, phát triển cụm công nghiệp đã từng bước có bước chuyển mạnh mẽ và đạt được những kết quả tích cực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp; đóng góp cho ngân sách cũng như GDP, tạo mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ cá thể mở rộng và phát triển sản xuất và có điều kiện đầu tư công nghệ mới kết hợp với công nghệ cổ truyền sản xuất các mặt hàng mới phục vụ tiêu dùng, xuất khẩu; tạo điều kiện xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề, đồng thời giải quyết nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn; góp phần bảo vệ môi trường… Đặc biệt, đã góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước “ly nông bất ly hương” và xây dựng nông thôn mới.
Với vai trò là cơ quan quản lý ngành, Bộ Công Thương cho biết, đã tham mưu, nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý, phát triển cụm công nghiệp (CCN), trong đó có Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 của Chính phủ về quản lý, phát triển CCN và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP ngày 11/6/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP.
Hội nghị phổ biến Nghị định số 32/2024/NĐ-CP và Nghị định số 43/2024/NĐ-CP |
Tuy nhiên, quá trình việc triển khai thực hiện Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP đã gặp vướng mắc, khó khăn do chưa đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành như pháp luật về: Đầu tư, xây dựng, đất đai… và một số nội dung, quy định của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP, Nghị định số 66/2020/NĐ-CP về phương án phát triển CCN; điều kiện thành lập, mở rộng CCN; chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển CCN; xử lý CCN hình thành trước Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg…; cũng cần được rà soát, chỉnh sửa, bổ sung lại cho phù hợp với yêu cầu quản lý CCN và các yêu cầu mới.
Tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển bền vững các CCN được ở các văn bản như: Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của nước ta 10 năm 2011-2020, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030; Kết luận số 54-KL/TW ngày 07/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045… Đồng thời thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, phát triển CCN; đảm bảo quy hoạch, phát triển CCN bền vững, trật tự, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương; kịp thời tháo gỡ những bất cập phát sinh trong thực tiễn, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2024/NĐ-CP về quản lý, phát triển CCN (Nghị định số 32/2024/NĐ-CP), thay thế Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP.
Nghị định số 32/2024/NĐ-CP gồm 7 Chương và 38 Điều. Bên cạnh quy định chung, Nghị định quy định Phương án phát triển, thành lập, mở rộng CCN; Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN, trong đó quy định về việc xác định chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; trình tự đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật của CCN; quy hoạch chi tiết xây dựng CCN; quản lý dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN; quản lý các dịch vụ công cộng, tiện ích; quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN.
Nghị định cũng quy định về đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN bao gồm tiếp nhận dự án đầu tư vào CCN; thuê đất, cấp giấy phép xây dựng trong CCN; quyền của tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN; quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, Nghị định cũng đưa ra các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển CCN.
Về công tác quản lý nhà nước đối với CCN, Nghị định quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhà nước về CCN của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành; quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Bộ Công Thương và các Bộ khác liên quan (Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Công an), UBND cấp tỉnh, Sở Công Thương và UBND cấp huyện…
Nhiều điểm mới trong Nghị định số 32/2024/NĐ-CP
Nghị định 32/2024/NĐ-CP đã mở rộng mô hình chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN là các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh hạ tầng kỹ thuật CCN; phù hợp với quy định của Luật Đất đai hiện hành (khoản 2 Điều 149) về cơ chế cho thuê đất đầu tư kinh doanh hạ tầng CCN và phát huy hiệu quả hoạt động của các CCN do doanh nghiệp làm chủ đầu tư hạ tầng thời gian qua.
Đối với các đơn vị đã được giao làm chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN quy định tại khoản 2, Điều 15, Nghị định số 68/2017/NĐ-CP tiếp tục hoạt động đến khi có quyết định sắp xếp, xử lý của cơ quan có thẩm quyền; thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN quy định tại Nghị định số 32/2024/NĐ-CP và pháp luật liên quan.
Để phù hợp với quy định của Luật Đầu tư; kế thừa, giữ nguyên các nguyên tắc, nội dung quản lý đã được quy định tại Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP đang phát huy hiệu quả; tiếp tục thể chế hóa tinh thần chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách hành chính, tăng cường trách nhiệm cho cơ quan quản lý công thương địa phương trong quản lý CCN…, Nghị định số 32/2024/NĐ-CP tiếp tục quy định thủ tục thành lập, mở rộng CCN (trong đó có lựa chọn chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN) và đồng thời giao trách nhiệm cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền quy định dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN phù hợp với nội dung Báo cáo đầu tư thành lập, mở rộng CCN đã được phê duyệt, không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư theo pháp luật về đầu tư.
Các đại biểu đóng góp ý kiến về việc triển khai thực thi 2 Nghị định tại Hội nghị |
Nghị định phân cấp cho UBND cấp tỉnh quyết định (tại Quyết định thành lập, mở rộng CCN) việc điều chỉnh về tên gọi, vị trí thay đổi trong địa giới hành chính cấp huyện, diện tích tăng không quá 5 ha so với quy hoạch được phê duyệt, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và quy hoạch khác trên địa bàn; đồng thời cập nhật nội dung thay đổi để báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại kỳ lập, phê duyệt quy hoạch tỉnh tiếp theo. Giao UBND cấp tỉnh căn cứ thẩm quyền, quy định của pháp luật quyết định việc điều chỉnh nội dung hoặc bãi bỏ Quyết định thành lập, mở rộng CCN cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Đối với điều chỉnh chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN, nếu cụm công nghiệp có công trình hạ tầng kỹ thuật hình thành từ ngân sách nhà nước, thì UBND cấp tỉnh giao cho chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật được lựa chọn để quản lý, sửa chữa và vận hành phục vụ hoạt động chung của CCN. Kinh phí xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật CCN từ ngân sách nhà nước không được tính vào giá cho thuê đất, giá sử dụng hạ tầng kỹ thuật chung của CCN; chi phí quản lý, sửa chữa, vận hành công trình hạ tầng kỹ thuật được tính vào giá sử dụng hạ tầng kỹ thuật chung của CCN. Trường hợp pháp luật chuyên ngành quy định nội dung này thì thực hiện theo pháp luật chuyên ngành.
Về ưu đãi đầu tư đối với dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN và dự án đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN, Nghị định số 32/2024/NĐ-CP quy định CCN là địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN là ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư. Việc áp dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh trong CCN được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành (pháp luật về đất đai, pháp luật về thuế, pháp luật về tín dụng và quy định khác của pháp luật có liên quan) để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Trường hợp pháp luật quy định các mức ưu đãi khác nhau thì áp dụng mức ưu đãi cao nhất.
Ngoài ra, Nghị định số 32/2024/NĐ-CP tiếp tục quy định chuyển tiếp về xử lý thành lập CCN hình thành trước Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý CCN theo hướng đơn giản, linh hoạt xử lý cho địa phương nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc chung trong quản lý CCN (thống nhất các nội dung của Quyết định thành lập CCN, xử lý trường hợp đối với CCN có diện tích lớn hơn 75 ha, việc lựa chọn chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN và xử lý công trình hạ tầng kỹ thuật hình thành từ ngân sách nhà nước – nếu có). Theo đó, Nghị định giao UBND cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế, hiệu quả hoạt động của CCN, tổ chức rà soát lại hiện trạng đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hồ sơ pháp lý liên quan của CCN để làm rõ sự cần thiết, phù hợp quy định pháp luật, tính khả thi và quyết định việc thành lập CCN.
Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/2024 thay thế Nghị định số 68/2017/NĐ-CP và Nghị định số 66/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP; các nội dung về quy định chuyển tiếp được quy định tại Điều 35 của Nghị định.
Phổ biến Nghị định số 43/2024/NĐ-CP
Nghị định số 43/2024/NĐ-CP quy định chi tiết về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ (Nghị định số 43). Nghị định số 43 có hiệu lực từ ngày 6/6/2024. Theo đó, căn cứ Điều 67, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022, Thủ tướng Chính phủ phân công Bộ Công Thương chủ trì xây dựng Nghị định quy định chi tiết về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ.
Thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao, vừa qua Bộ Công Thương đã trình Chính phủ ký ban hành Nghị định số 43. Nghị định có hiệu lực từ ngày 6/6/2024, thay thế Nghị định số 123/2014/NĐ-CP ngày 25/12/2014 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ.
Nghị định số 43, gồm 5 Chương và 20 Điều. Trong đó, Chương I, quy định chung, gồm có 5 điều. Quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng xét tặng, giải thích từ ngữ, thời gian xét tặng, quyền và nghĩa vụ của nghệ nhân. Chương II, tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú, gồm có 2 điều; từ điều 6 đến điều 7.
Nghị định số 43 có một số nội dung mới so với Nghị định 123/2014/NĐ-CP, là làm rõ về đối tượng xét tặng, không áp dụng đối với cá nhân đang được xét tặng hoặc đã được tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể về nghề thủ công truyền thống (do Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch chủ trì thực hiện). Theo đó, bổ sung giải thích từ, nghề thủ công mỹ nghệ, nghề thủ công mỹ nghệ đặc thù, sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Về tiêu chuẩn xét tặng, cụ thể hóa giải thưởng của các hội thi, bổ sung một số tiêu chuẩn về có sản phẩm được công nhận tiêu biểu, đánh giá phân hạng cấp quốc gia, số lượng người làm nghề. Đặc biệt đối với trường hợp Nghệ nhân ưu tú trên 70 tuổi không đáp ứng tiêu chuẩn liên quan đến đạt giải thưởng, thì có các tiêu chí xét cho phù hợp để đề nghị xét phong tặng Nghệ nhân nhân dân.
Nghị định cũng quy định về thời gian tổ chức hoạt động xét của từng cấp hội đồng (Hội đồng cấp tỉnh không quá 90 ngày, Hội đồng cấp chuyên ngành không quá 120 ngày, Hội đồng cấp Nhà nước không quá 120 ngày). Nghị định phân cấp cho UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức Lễ công bố Quyết định phong tặng của Chủ tịch nước và trao tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ cư trú tại địa phương.
Đồng bộ giải pháp triển khai thực thi đưa các Nghị định đi vào cuộc sống
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, qua thảo luận, các ý kiến đều nhận định Nghị định số 32 đã góp phần thể chế hoá chủ trương của Đảng, Nhà nước, tạo hành lang pháp lý phát triển công nghiệp; nâng cao công tác quản lý nhà nước; tạo điều kiện cho các ngành nghề thủ công, tạo công ăn việc làm cho khu vực nông thôn… Mặc dù đã có Nghị định song cũng phải nhìn nhận rằng có nhiều vấn đề liên quan đến các bộ, ngành không thể gói gọn trong một văn bản. Do đó, trong quá trình triển khai có thể sẽ phát sinh vấn đề mới, sẽ cùng nhau bàn bạc thảo luận xem xét giải quyết.
Do đó, để triển khai Nghị quyết có hiệu quả, Bộ trưởng Bộ Công Thương đề nghị các bộ, ngành Trung ương có liên quan quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về quản lý CCN và xét phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ theo thẩm quyền được quy định tại Nghị định số 32, Nghị định số 43 của Chính phủ và các quy định khác có liên quan của pháp luật; đồng thời, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với Bộ Công Thương và UBND các tỉnh/thành phố trong chỉ đạo, quản lý chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật về quản lý, phát triển CCN và thi đua, khen thưởng.
Tiếp tục tổng hợp những khó khăn, vướng mắc phát sinh và kiến nghị của địa phương, tổ chức, cá nhân về quản lý CCN và xét tặng các danh hiệu Nghệ nhân trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ để xem xét, giải quyết hoặc đề xuất với cấp có thẩm quyền chỉ đạo giải quyết trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành có liên quan.
Đối với cấp uỷ, chính quyền các địa phương, đề nghị cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Nghị định số 32, Nghị định số 43, các quan điểm, chính sách có liên quan của Đảng, Nhà nước cho các sở, ban, ngành, UBND các cấp, các tổ chức, cá nhân và nhân dân để thực hiện.
Chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, triệt để các nhiệm vụ quản lý CCN và xét tặng các danh hiệu Nghệ nhân theo thẩm quyền được quy định tại các Nghị định này; đồng thời, thiết lập cơ chế phối hợp, phân cấp giữa các cơ quan quản lý nhà nước từ cấp tỉnh đến cơ sở và chỉ đạo các sở, ngành, đơn vị trên địa bàn trong chức năng, nhiệm vụ được giao phối hợp chặt chẽ với Sở Công Thương, UBND cấp huyện triển khai thực hiện đầy đủ các quyền hạn, trách nhiệm được quy định tại các Điều 33, Điều 34 của Nghị định số 32; Điều 9, Điều 14 Nghị định 43 và các quy định khác có liên quan của Nhà nước.
Chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới Quy chế quản lý CCN trên địa bàn và các chương trình, cơ chế chính sách về hỗ trợ phát triển CCN và các ngành nghề thủ công mỹ nghệ ở địa phương, bảo đảm phù hợp với các quy định tại Nghị định số 32 và quy định khác có liên quan của Nhà nước để huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật các CCN, các làng nghề truyền thống nhằm đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư thứ cấp, góp phần phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
Hoàn thành xử lý dứt điểm trước ngày 31/12/2026 theo quy định tại khoản 4 Điều 35 Nghị định này đối với việc thành lập các CCN có trong Phương án phát triển CCN thuộc Quy hoạch tỉnh, được hình thành trước Quyết định số 105/QĐ-TTg năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ; báo cáo kết quả xử lý về Bộ Công Thương để tổng hợp, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo quy định.
Chú trọng tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thu hút, lựa chọn các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức kinh tế khác có đủ năng lực, kinh nghiệm làm chủ đầu tư hạ tầng kỹ thuật CCN. Định hướng, ưu tiên xúc tiến các doanh nghiệp/dự án đầu tư thứ cấp có cùng ngành nghề, có khả năng liên kết hỗ trợ nhau vào cùng một CCN; nhất là các ngành CN có công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tiêu tốn ít năng lượng và có giá trị gia tăng cao vào đầu tư sản xuất tại CCN, bảo đảm phát triển bền vững.
Thường xuyên rà soát tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN và tình hình thu hút đầu tư vào các CCN trên địa bàn để có giải pháp tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, phát huy hiệu quả đầu tư; kiên quyết xử lý dứt điểm các CCN và các dự án trong CCN gây ô nhiễm môi trường hoặc sử dụng đất không hiệu quả, không đúng mục đích, chậm tiến độ.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm các quy định của pháp luật tại các CCN trên địa bàn (như: Pháp luật về đất đai, đầu tư, xây dựng, bảo vệ môi trường, phòng cháy, chữa cháy và quy định pháp luật khác có liên quan) để chấn chỉnh công tác quản lý, đầu tư phát triển các CCN trên địa bàn theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với các Sở Công Thương được giao làm đầu mối, phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành, đơn vị liên quan, chủ động tham mưu UBND cấp tỉnh về công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nội dung, quy định của Nghị định số 32; thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước tại địa phương; đề xuất kiến nghị những vấn đề vượt thẩm quyền và có báo cáo theo quy định.
Bộ trưởng Công Thương giao Cục Công Thương địa phương là đơn vị đầu mối, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng của Bộ chủ động thực hiện tốt công tác tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện công tác quản lý nhà nước về CCN trong cả nước theo quy định tại Nghị định số 32 và thực hiện xét phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ theo quy định tại Nghị định số 43; đồng thời, hướng dẫn UBND cấp tỉnh trong chỉ đạo, quản lý, phát triển CCN trên địa bàn và trong hoạt động của Hội đồng xét tặng cấp tỉnh, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định. Khẩn trương xây dựng, trình Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành Thông tư quy định, hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 32 và văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43 (nếu cần). Phối hợp với Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số tổ chức xây dựng, vận hành Cơ sở dữ liệu về CCN trong cả nước; hướng dẫn Sở Công Thương cập nhật dữ liệu vào Cơ sở dữ liệu này.
Đồng thời, tiếp tục tổng hợp những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện Nghị định số 32 và Nghị định số 43 để đề xuất cấp có thẩm quyền trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quản lý, phát triển CCN và pháp luật chuyên ngành có liên quan. Đẩy mạnh các hoạt động thông tin truyền thông về tình hình công tác quản lý, phát triển các CCN trong cả nước và hoạt động xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ gắn với việc bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ ở các địa phương./.