Tăng cường quản lý khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng

Tăng cường quản lý khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng

TN&MTKhai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng trong thời gian qua đã đáp ứng nhu cầu xây dựng và đô thị hóa, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương. Tuy nhiên, nếu không được quản lý chặt chẽ, thì hoạt động này sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực.

Tăng cường quản lý khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng

Tiềm năng khoáng sản lớn 

Tiềm năng tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng của Việt Nam tương đối lớn, phân bổ rộng ở nhiều tỉnh, thành. Ví như về khoáng sản làm xi măng, hiện có hơn 327 khu vực đá vôi đã được thăm dò khảo sát, với tổng tài nguyên trữ lượng ước hơn 31 tỷ tấn, 294 khu vực sét, đá sét đã được thăm dò khảo sát, với tổng tài nguyên trữ lượng ước hơn 8,4 tỷ tấn và 167 khu vực nguyên liệu phụ gia các loại đã được thăm dò khảo sát, với tổng tài nguyên, trữ lượng ước gần 2,4 tỷ tấn; số khu vực khoáng sản làm đá ốp lát, mỹ nghệ đã được thăm dò, khảo sát trên phạm vi toàn quốc là 426 khu vực, tổng tài nguyên, trữ lượng khoảng gần 22 tỷ m3 đá.

Về cơ sở pháp lý, các khoáng sản làm vật liệu xây dựng đã được tổng hợp và quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng tại 03 quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương phê duyệt. Tuy nhiên, thời điểm lập quy hoạch trước đây, công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản thực hiện còn hạn chế nên một số thông tin về vị trí, tọa độ, diện tích, địa danh và tiềm năng khoáng sản làm vật liệu xây dựng chưa đầy đủ và chính xác, gây khó khăn cho công tác quản lý, cấp phép hoạt động khoáng sản.

Diện tích, quy mô, công suất trong quy hoạch trước đây cũng không còn phù hợp giữa giai đoạn thăm dò và giai đoạn khai thác. Tình trạng khai thác khoáng sản ở một số địa bàn vẫn còn gây thất thoát tài nguyên và ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường. Bên cạnh đó, thực tế, quá trình thăm dò, khai thác khoáng sản thường chiếm dụng một lượng lớn tài nguyên đất trong thời gian dài nhưng sau khi kết thúc khai thác, việc hoàn phục khu vực khai thác thường không được quan tâm đúng mức, dẫn đến các khu vực đã khai thác không sử dụng được cho các mục đích khác trong thời gian dài. Việc chiếm dụng đất có thể phải lấy đến đất lâm nghiệp, đất nông nghiệp hoặc đất quy hoạch cơ sở hạ tầng nên làm thu hẹp diện tích đất khác và việc chiếm dụng đất còn tác động, làm thay đổi chất lượng đất theo chiều hướng tiêu cực.

Ở một số khu vực sản xuất vật liệu xây dựng, do rác thải phát sinh trong quá trình sản xuất không được thu gom và xử lý kịp thời gây nên ô nhiễm môi trường. Chưa kể, việc khai thác các mỏ đá vôi, đá sét bằng phương pháp lộ thiên, sử dụng công nghệ khoan, nổ mìn,… còn tạo thành những khu vực địa hình trũng, địa hình âm, địa hình lồi lõm, làm mất kết nối với địa hình nguyên thủy xung quanh. Các công đoạn chính trong quá trình khai thác và chế biến có thể làm phát sinh một số tác nhân gây ô nhiễm như tiếng ồn, bụi, nước thải, chất thải rắn, thậm chí có thể gây ra các nguy cơ sạt lở núi,…

Ngoài ra, Luật Khoáng sản và các văn bản hướng dẫn thi hành được thực hiện nhưng nhiều tổ chức, cá nhân lợi dụng quyền quản lý, sử dụng đất, rừng hợp pháp của mình để khai thác khoáng sản trái phép. Điển hình là hoạt động khai thác than trong vườn nhà của người dân ở các khu vực mỏ than tỉnh Quảng Ninh; khai thác quặng cao lanh, đá cảnh, khai thác nước khoáng trong diện tích đất được giao sử dụng tại một số tỉnh như: Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Ninh Bình; và khai thác vật liệu xây dựng thông thường (san lấp) diễn ra ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Phúc,…

Sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản bảo đảm phát triển bền vững

Trước thực trạng trên, Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1626/QĐ-TTg.

Phạm vi ranh giới của Quy hoạch được lập cho tất cả các nhóm/loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng (trừ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và khoáng sản phân tán nhỏ lẻ theo quy định của pháp luật về khoáng sản) trên diện tích đất liền, hải đảo và thềm lục địa của cả nước.

Quy hoạch đã giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện của quy hoạch thời kỳ trước, đặc biệt là việc giao thoa, chồng lấn giữa các khu vực/mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng. Các khu vực/mỏ khoáng sản đã và đang thực hiện được rà soát và cập nhật có chọn lọc các thông tin, số liệu, bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu phát triển KT-XH của địa phương với nhu cầu khoáng sản cung cấp cho các ngành công nghiệp.

Tại quy hoạch đã phê duyệt, tất cả các khu vực khoáng sản đều được khoanh định tọa độ khép góc, xác định cụ thể diện tích, dự kiến tài nguyên, trữ lượng và công suất khai thác để thuận lợi cho công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản. Đồng thời được sắp xếp khoa học theo danh mục từng địa phương ở 6 vùng kinh tế cho từng loại khoáng sản được phân theo mục đích sử dụng để thuận tiện cho việc quản lý, theo dõi, tra cứu và cập nhật thông tin trong quá trình thực hiện quy hoạch sau này. Ngoài ra, để khắc phục bất cập trong công tác cấp giấy phép hoạt động khoáng sản giai đoạn trước, công suất khai thác các khu vực khoáng sản trong quy hoạch được xác định là con số tối đa cho phép (chưa bao gồm khoáng sản đi kèm), được xác định trên cơ sở kết quả phê duyệt trữ lượng của cơ quan có thẩm quyền và dự án đầu tư khai thác khoáng sản đã được phê duyệt theo quy định.

Đối với việc chế biến và sử dụng khoáng sản làm VLXD yêu cầu các dự án đầu tư mới phải bảo đảm được nguồn nguyên liệu đủ trữ lượng và chất lượng phục vụ sản xuất, đặc biệt là các dự án sản xuất xi măng và vôi công nghiệp; tăng cường nghiên cứu ứng dụng công nghệ tái chế, tái sử dụng phế thải của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và các ngành khác làm nguyên liệu, nhiên liệu sản xuất VLXD, giảm sử dụng tài nguyên khoáng sản tự nhiên, giảm ô nhiễm môi trường.

Trên cơ sở tiềm năng tài nguyên khoáng sản đã điều tra, đánh giá và hiện trạng hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản, Quy hoạch đã phân tích các kịch bản phát triển, dự báo nhu cầu để xây dựng phương án quy hoạch nhằm khoanh định các khu vực khoáng sản đưa vào thăm dò – khai thác thời kỳ 2021-2030 và định hướng cho giai đoạn tầm nhìn đến 2050. Theo đó, đã quy hoạch thăm dò 518 khu vực khoáng sản (KVKS) giai đoạn 2021-2030 và 177 KVKS giai đoạn tầm nhìn đến 2050; quy hoạch khai thác 774 KVKS giai đoạn 2021-2030 và 931 KVKS giai đoạn tầm nhìn đến 2050. Tổng tài nguyên, trữ lượng huy động vào quy hoạch là 26,6 tỷ tấn các loại khoáng sản và 2,25 tỷ m3 đá làm ốp lát.

Sau khi Quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Xây dựng sẽ tiến hành công bố công khai Quy hoạch, cập nhật thông tin và cơ sở dữ liệu về Quy hoạch vào hệ thống thông tin và cơ sở quốc gia về quy hoạch, đồng thời, tổ chức lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch theo quy định pháp luật về quy hoạch.

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh cho biết, Quy hoạch thể hiện rõ quan điểm, thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản bảo đảm phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu trong nước và dự trữ tài nguyên khoáng sản phục vụ ngành Vật liệu xây dựng trước mắt và lâu dài; bảo đảm quốc phòng, an ninh, hiệu quả KT-XH; bảo vệ môi trường, di tích lịch sử, văn hóa, hài hòa giữa lợi ích quốc gia, địa phương và doanh nghiệp.

HƯƠNG TRÀ
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 8 năm 2024

Nguồn: https://tainguyenvamoitruong.vn/tang-cuong-quan-ly-khai-thac-khoang-san-lam-vat-lieu-xay-dung-cid114870.html